Mô tả:
I.Tổng quan về Ủy ban tham mưu quân sự 1. Lịch sử hình thành và hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự 1.1.Nguyên nhân thành lập Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan khá đặc biệt của Liên Hiệp Quốc khi nó là cơ quan hỗ trợ duy nhất được ghi nhận ngay tại Hiến chương Liên Hợp Quốc , với những điều khoản quy định chi tiết vai trò, nhiệm vụ. cách thức hoạt động, của nó. Năm 1945, các nhà soạn thảo Hiến chương Liên Hợp Quốc thành lập một hệ thống an ninh tập thể, dựa trên tiền đề rằng việc đạt được hòa bình và an ninh quốc tế cần đến một phản ứng chung của cả cộng đồng các quốc gia thành viên thông qua kênh chỉ đạo của Hội đồng Bảo an. Điều này đã được hệ thống trong Hiến chương và được coi như là một yếu tố quan trọng của tổ chức này. Cụ thể, theo Chương VII của Điều lệ, sau khi đánh giá tình hình phù hợp với Điều 39 (hành động xâm lược, phá hoại hòa bình hoặc một mối đe dọa đối với hòa bình), Hội đồng Bảo an có thể thực hiện song song việc áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế theo Điều 41trước, trong hoặc sau khi thực hiện Điều 42, "áp dụng các lực lượng hải, lục, không quân mà Hội đồng bảo an xét thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế "; bao gồm "các cuộc biểu tình, phong tỏa và các hoạt động khác của lực lượng hải, lục, không quân do các thành viên Liên Hợp Quốc thực hiện ", với sự hỗ trợ có thể của hiệp định hoặc tổ chức khu vực ; Điều 45 cũng quy định việc thi hành các biện pháp quân sự khẩn cấp . Về mặt này, theo Điều 43, tất cả các nước thành viên "có nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực lượng vũ trang, sự yểm trợ và mọi phương tiện khác, kể cả việc cho phép quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình” Để đảm bảo sự phối hợp cần thiết các lực lượng mang bởi tính chất rất khác nhau, nhưng trên tất cả phải đảm bảo vai trò lãnh đạo hàng đầu của Liên Hiệp Quốc, tổ chức này đã lập nên một cơ quan mang vai trò tham vấn trong những trường hợp này. Và Ủy ban tham mưu quân sự đã ra đời từ đó. Hiến chương đã ghi nhận rằng "các kế hoạch cho việc sử dụng các lực lượng vũ trang sẽ do Hội đồng bảo an đề ra với sự giúp đỡ của Ủy ban tham mưu quân sự ". Ủy ban này bao gồm tham mưu trưởng của các thành viên thường trực của Hội đồng bảo an hoặc người đại diện của họ, có nhiệm vụ tham vấn một cách hiệu quả cho Hội đồng Bảo an về tất cả các vấn đề liên quan đến quân sự, việc tuyển dụng và chỉ huy của các lực lượng, các quy định về vũ khí và giải trừ quân bị . Nhưng trên tất cả, các Ủy ban tham mưu quân sự phải chịu trách nhiệm cho các định hướng chiến lược của tất cả lực lượng quân sự hiện có, dưới quyền của Hội đồng bảo an . Ủy ban này được đặt bên dưới các cơ quanvà chức danh chính được liệt kê cụ thể trong Hiến chương : Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng, Tòa án Công lý Quốc tế, Tổng thư ký, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Hội đồng Ủy thác. Như đã nói ở trên, Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan khá đặc biệt khi việc phân định loại cơ quan của nó có vẻ hơi mơ hồ vì nó dường như Ủy ban tham mưu quân sự không được coi là một cơ quan giúp việc trong phạm vi ý nghĩa của Điều 29 của Hiến chương, cũng như trong quy định của khoản 2 Điều 7 . Tuy nhiên, khi nghiên cứu Hiến chương, ta có thể coi Ủy ban tham mưu quân sự như một cơ quan kỹ thuật (un organe technique) cho Hội đồng Bảo an trong việc thẩm định và trình bày ý kiến, đưa ra ý kiến tham vấn. Nói cách khác , theo câu chữ của Hiến chương, ta có thể hiểu rằng , Hội đồng Bảo an có trách nhiệm duy trì hòa bình, an ninh thế giới bằng cách sử dụng lực lượng được cung cấp bởi các quốc gia thành viên. Và Ủy ban tham mưu quân sự sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy chiến lược cho tất cả các lực lượng vũ trang thuộc quyền điều hành của Hội đồng bảo an 1.2. Lịch sử hoạt đông của Ủy ban Nghị quyết đầu tiên của Hội đồng bảo an đưa ra việc chỉ đạo hoạt động cho Ủy ban tham mưu quân sự được thông qua ( mặc dù không có việc bỏ phiếu thông qua nào) vào ngày 1/2/1946. Tuân thủ theo đúng nghị quyết này, Ủy ban tham mưu quân sự đã mời các đoàn đại biểu của lực lượng không quân , hải quân và lục quân của các nước thành viên thường trực Liên Hiệp Quốc ( Anh, Liên Xô, Mỹ , Pháp ,Trung Quốc) họp với nhau tại London vào tháng Hai năm 1946 để bàn về thủ tục hoạt động cũng như các nguyên tắc chung của cơ quan này. Ủy ban tham mưu quân sự đã thống nhất được thủ tục hoạt động của mình thông qua nghị quyết S/10( bị hạn chế). Các quốc gia tham dự hội nghị cũng đã thống nhất việc nghiên cứu điều 43 trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc về nghĩa vụ đóng góp lực lượng của các quốc gia thành viên , Liên Hợp Quốc , từ đó đề ra những quy định cụ thể, các biện pháp chung khi thực hiện việc này. Từ ngày 9 tháng 4 đến 24 tháng 7 năm 1946, Ủy ban tham mưu quân sự đã tích cực nghiên cứu , phát triển những nguyên tắc chung dựa vào điều 43 của Hiến chương . Tuy nhiên, thời điểm này, tổng thư kí Liên hiệp Quốc Tryve Lie đã có những động thái phản đối những dự thảo của Ủy ban. Tổng thư kí đã cho rằng những dự thảo điều lệ và quy tắc về thủ tục của Ủy ban tham mưu quân sự không công nhận đầy đủ những quyền hạn ,trách nhiệm quan trọng cũng như những đặc quyền cơ bản của chức vụ Tổng thư kí . Chính vì vậy, vào ngày 1 tháng tám năm 1946, Ủy ban tham mưu quân sự phải đưa ra một văn bản sửa đổi cho Quy định thủ tục (S/10) ban hành trước đó bằng một văn bản khác , trong đó quy định thêm những thẩm quyền đặc biệt của Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc ( S/115) Sau khi đã thống nhất thông qua được thủ tục hoạt động của mình , Ủy ban tham mưu quân sự đã bắt đầu thực hiện các hoạt động mang tính thực tiễn của mình. Cơ quan này đã nghiên cứu về việc giải trừ quân bị trên phạm vi toàn cầu. Vào năm 1947, Đại hội đồng đã thông qua một số nghị quyết quan trọng về việc giải trừ quân bị, và một trong các nghị quyết ấy đã kêu gọi Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc trao cho Ủy ban tham mưu quân sự quyền hạn trong hoạt động này và công nhận những kết quả thảo luận về vấn đề giải trừ quân bị của Ủy ban này, được thực hiện vào tháng Tư năm 1947. Đáp lại những lời kêu gọi này, Hội đồng bảo an đã thông qua một nghị quyết để tạo hiệu lực cho các nghị quyết về giải trừ quân bị của Đại hồi đồng trước đó, cũng như chính thức yêu cầu Ủy ban tham mưu quân sự phải gửi báo cáo về vấn đề này. Cũng trong nghị quyết này, Hội đồng bảo an cũng nói đến việc thành lập nên một Ủy ban về vũ khí thông thường (Commission for Conventional Armaments) và hỏi ý kiến của Ủy ban tham mưu quân sự về kiến nghị này, vì có thể những mục đích cũng như đối tượng của các cơ quan này có thể tương đương nhau và có thể gây ra chồng chéo trong việc thực hiện quyền hạn. Sau khi nhận được yêu cầu của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, Ủy ban tham mưu quân sự đã đệ trình ngay sau đó bản báo cáo của mình vào ngày 30 tháng Tư với 10 chương 41 điều , trong đó Ủy ban thể hiện sự đồng ý về đa số những điều ghi nhận trong nghị quyết này. Cũng trong thời gian này, Ủy ban tham mưu quân sự đã có những quan tâm đến vấn đề có nên thiết lập một lực lượng quân sự thường trực hay không. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát nên những cuộc chiến tranh mới, vì thế có ý kiến cho rằng Liên Hiệp Quốc nên duy trì một lực lượng quân sự thường trực , có nhiệm vụ giám sát và ứng phó nhanh đối với các thế lực có khả năng làm tổn hại đến hòa bình và an ninh thế giới. Trên thực tế, mặc dù đã có những nguyên tắc về đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, nhưng ban đầu, việc sử dụng vũ lực của Liên Hiệp Quốc không được quy định rõ ràng . Liên Hiệp Quốc mặc dù chưa bao giờ thể hiện ý định sẽ có một lực lượng quân sự riêng của mình, nhưng thay vào đó, các quốc gia thành viên, kể cả là những thành viên ngoài Hội đồng bảo an sẽ phải có nghĩa vụ đóng góp quân đội, trang thiết bị , khí tài nếu như Hội đồng bảo an có yêu cầu, phù hợp với điều 42 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Trong những trường hợp như vậy, các lực lượng này sẽ đặt dưới sự định hướng chiến lược của Ủy ban tham mưu quân sự. Trước khi các nguyên tắc hoạt động chung của Ủy ban tham mưu quân sự được thống nhất và thông qua, cơ quan này đã thiết lập một tiểu ban vào tháng Năm năm 1947 để dự trù sức mạnh của các lực lượng quân sự khi các quốc gia đóng góp và sự phân bổ của các lực lượng này. Ủy ban này cho rằng lực lượng không quân sẽ là lực lượng thích hợp nhất cho các trường hợp khẩn cấp. Điều này đã được ghi nhận tại điều 45 Hiến chương Liên Hiệp Quốc : “ Với mục đích đảm bảo cho Liên Hiệp Quốc có thể áp dụng những biện pháp quân sự khẩn cấp , các thành viên phải báo động cho một số phi đội không quân vào tư thế sẵn sàng chiến đấu nhằm phối hợp với các hành động quốc tế có tính chất cưỡng chế. Số lượng, mức độ chuẩn bị và kế hoạch phối hợp hành động của các phi đội này sẽ được Hội đồng bảo an, với sự giúp đỡ của Ủy ban tham mưu quân sự , ấn định theo những hiệp ước đặc biệt nói ở điều 43” . Từ các tài liệu viết về các MSC, các tham mưu trưởng Vương quốc Anh cho biết các quốc gia thuộc các thành viên thường trực Liên Hiệp Quốc (P5) cam kết sẽ đóng góp phần lớn lực lượng quân sự cho Liên Hiệp Quốc. Các tham mưu trưởng này giải thích thuật ngữ "phần lớn" có nghĩa là những P5 sẽ đóng góp hai phần ba của một lực lượng Liên Hiệp Quốc, và dựa trên tính toán của họ trên tổng số sức mạnh của một lực lượng Liên Hiệp Quốc mà có thể bao gồm Lực lượng không quân - 600 máy bay ném bom, máy bay chiến đấu 400, 200 máy bay khác Hải quân - 2 thiết giáp hạm, 4 tàu sân bay, tàu tuần dương 6, 24 tàu khu trục, 48 tàu khu trục, 24 tàu quét mìn, 12 tàu ngầm, vũ khí chiến đấu cho 2 lữ đoàn Lục quân : 8 đến 12 quân đoàn Tới năm 1947, các đề xuất khác nhau của P5 chỉ ra rằng các lực lượng có thể được tăng lên: Không quân - 750 máy bay ném bom, máy bay chiến đấu 500, 25 người khác, tổng số 1.500 Lực lượng Hải quân - 3 tàu chiến, 6 tàu sân bay (4 đội, 2 ánh sáng), 12 tàu tuần dương, tàu khu trục 33, 64 tàu khu trục, 24 tàu quét mìn, 14 tàu ngầm, cuộc sống tấn công cho bốn nhóm lữ đoàn (16.000 người) Lục quân - 15 sư đoàn (375.000 - 450.000 người) Tuy nhiên, đó chỉ là những dự tính ban đầu khi thành lập nên Ủy ban tham mưu quân sự. Còn trên thực tế, chỉ vỏn vẹn hai mươi chin tháng sau khi được thành lập, vào ngày 2 tháng Bảy năm 1948, cơ quan này đã báo cáo lên Hội đồng bảo an rằng Ủy ban không thể thực hiện được chức năng của nó. Liên Hiệp Quốc đã có những nỗ lực để giúp duy trì hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự , nhưng không đạt được những kết quả khả quan nào. Năm 1950, Đại hội đồng đề nghị Hội đồng Bảo an, trong Nghị quyết Achesoncó đề cập về việc " phát triển các biện pháp được thực tiễn chứ không phải các Điều 43, 45, 46 và 47 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, đặc biệt là liên quan đến các hoạt động hiệu quả của Ủy ban tham mưu quân sự " . Tuy nhiên, hoạt động của Ủy ban này vẫn trì trệ và dân đi vào quên lãng, hoặc có chăng cũng chỉ là những cuộc gặp gỡ của các thành viên trong Ủy ban, nhưng không được ghi nhận chính thức. Cơ quan này dường như chỉ tiếp tục hoạt động sau một quãng thời gian dài vào năm 1990, khi Hội đồng Bảo an kêu gọi các nước hữu quan phối hợp các hoạt động của họ trong lĩnh vực thực hiện các lệnh cấm vận đối với Iraq bằng cách sử dụng các cơ chế phù hợp của Ủy ban tham mưu quân sự. Ngoài ra Ủy ban tham mưu quân sự cũng nhận nhiệm vụ điều phối các lực lượng quân sự để chống lại Iraq. Năm 1992, Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc, trong một chuyến công du của mình , đã kêu gọi Ủy ban tham mưu quân sự thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình khuôn khổ của Chương VII và không nằm trong các hoạt động gìn giữ hòa bình . Cũng trong năm 1992, Đại hội đồng đã được phê duyệt, về cơ bản, những lời phát biểu của Tổng thư kí . Việc này vô hình trung đã làm hạn chế khả năng của Ủy ban tham mưu quân sự, khi tách biệt hai nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và nhiệm vụ hành động trong trường hợp hòa bình bị đe dọa, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Tuy nhiên, Hội đồng bảo an hay thậm chí là các thành viên chính thức của Ủy ban tham mưu quân sự lại không thể hiện thái độ phản đối một cách mạnh mẽ với các nghị quyết và tuyên bố này. Điều này thể hiện rằng các quốc gia P5 dường như đang thờ ơ , hoặc phớt lờ đi việc tái hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự. Nhưng vấn đề này vẫn được đưa ra thảo luận hoặc nhận được sự quan tâm bởi một số các quốc gia khác Ví dụ, Canada, Malaysia, Úc nêu vấn đề tại các cuộc họp của Ủy ban gìn giữ hòa bình (Département des opérations de maintien de la paix (DOMP)).Một tuyên bố khác Ngày 12 tháng năm 1995, Đan Mạch Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Hans Haekkerup, phát biểu rằng một nhóm các quốc gia (chủ yếu là phương Tây) mong muốn LHQ thành lập một đội quân thường trực , có khả năng phản ứng nhanh với những tình huống khẩn cấp. Trong số này, có Na Uy, Phần Lan, Canada, Bỉ, Hà Lan, Ba Lan,Cộng hòa Séc, Áo, Argentina, Ireland, New Zealand vàĐan Mạch, đều bày tỏ nguyện vọng đóng góp để tạo thành một lữ đoàn phản ứng nhanh thường trực bao gồm 4000-5000 người . Thật không may, những vị trí này đã không được theo dõi. Như vậy , từ một cơ quan được được kì vọng sẽ thực hiện những vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền hòa bình và an ninh thế giới, Ủy ban tham mưu quân sự đã trở thành một cơ quan kém hiệu quả , bế tắc và dần dẫn đến việc không hoạt động trong thời gian dài. Theo như giáo sư Eric Grove thì Ủy ban tham mưu quân sự chỉ là một “công trình vô nghĩa cho những hi vọng mờ nhạt của những người sáng lập nên Liên Hiệp Quốc” Tất nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khiến cho cơ quan này đã không thể thực hiện được những nhiệm vụ của mình II. Nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Ủy ban tham mưu quân sự 2.1 Nguyên nhân khách quan a. Các điều khoản trong hiến chương Có thể nói rằng việc hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự đã vấp phải những khó khăn ngay từ khi bắt đầu quá trình làm việc của mình. Trước hết, các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc khó có thể thực hiện được theo những điều khoản liên quan đến việc hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự. Cụ thể là , không phải quốc gia nào cũng có đủ tiềm lực quân sự hay kinh tế để “ cung cấp lực lượng vũ quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình”. Việc đóng góp quân đội sẽ phải đi kèm theo các hiệp ước đã được kí kết từ trước, nó có thể dẫn đến sự rắc rối trong việc kí kết các điều ước quốc tế giữa các quốc gia và Liên Hiệp Quốc . Các hiệp ước này sẽ tạo ra sự ràng buộc với các quốc gia , tạo ra nghĩa vụ bắt buộc các quốc gia phải trích một phần quân số hoặc các phương tiện khác, hoặc kinh phí để hỗ trợ hoạt động…Nó sẽ gây ra thêm áp lực cho các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia còn khó khăn, khi mà đã phải tham gia đóng góp những khoản phí bắt buộc khi gia nhập Liên Hiệp Quốc. Mặt khác, ngay cả khi đã quy định việc đàm phán ký kết những hiệp định đã được quy định tại điều 43 của Hiến chương thì những từ ngữ được sử dụng trong điều khoản này cũng không rõ ràng. Điều khoản không nêu rõ ràng được thời gian ký kết ( trong Hiến chương sử dụng từ “càng sớm càng tốt theo sáng kiến của Hội đồng bảo an ). Việc ký kết các hiệp ước được thực hiện thông qua biện pháp đàm phán và không giới hạn về mức thời gian như vậy có thể sẽ khiến cho các quốc gia có thể đưa ra những lý do khác nhau để trì hoãn việc đàm phán cũng như việc ký kết điều ước. Thực tế đã cho thấy kể từ khi bắt đầu hoạt động cho đến nay, ta chưa ghi nhận được một hiệp ước quân sự đáng kể nào giữa quốc gia và Liên Hiệp Quốc có nội dung liên quan đến điều 43 của Hiến chương. Tương tự như vậy, điều 45 quy định về việc sử dụng lực lượng không quân của các quốc gia cho những biện pháp quân sự khẩn cấp của Liên Hiệp Quốc, dưới sự giúp đỡ của ủy ban tham mưu quân sự . Tuy nhiên, việc này chỉ đạt được khi các quốc gia thành viên ấy ký kết với Liên Hiệp Quốc những hiệp ước đặc biệt theo quy định của điều 43 của Hiến chương, và các điều khoản trong các hiệp ước này sẽ quy đinh mức độ chuẩn bị, số lượng và kế hoạch phối hợp hành động của các phi đội này. Như đã trình bày ở trên, sẽ có rất ít các quốc gia mong muốn và thiện chí duy trì một lực lượng tác chiến chiến lược, luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu nhưng không được sử dụng để phục vụ các nhiệm vụ của quốc gia mà phải phụ thuộc theo lệnh của một tổ chức Sự bất hợp lý tại hai điều khoản trên cũng ảnh hưởng đến khả năng tuân thủ theo những điều khoản khác của Hiến chương. Mặc dù trên danh nghĩa , việc sử dụng lực lượng vũ trang quốc tế sẽ do Hội đồng bảo an đề ra và quyết định, Ủy ban tham mưu quân sự chỉ là một cơ quan giúp đỡ cho cơ quan này mà thôi . Tức là các quyết định này sẽ được thông qua sau khi có sự xem xét của cả các thành viên thường trực lẫn không thường trực. Tuy nhiên, cơ quan đưa ra những ý kiến chuyên môn lại là Ủy ban tham mưu quân sự. Xét về mặt cơ cấu tổ chức của Ủy ban này, ta có thể thấy nó bao gồm các Tham mưu trưởng của các ủy viên thường trực Hội đồng bảo an hoặc là địa diện của họ. Các quốc gia khác, kể cả trong hay ngoài Hội đồng bảo an chỉ đóng vai trò là những “đối tượng hợp tác” với cơ quan này. Nói cách khác, nếu như Ủy ban tham mưu quân sự tiếp tục hoạt động một cách thuận lợi như đã đề ra, nó sẽ là một cơ quan thể hiện sức mạnh quân sự to lớn của các quốc gia là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc(P5) – những quốc gia vốn dĩ đã sở hữu những đặc quyền , tiêu biểu là quyền phủ quyết (véto) trong Hội đồng bảo an. Giả sử có một trường hợp khẩn cấp nảy sinh, lúc đó, ý kiến của Ủy ban tham mưu quân sự sẽ chính là ý kiến của nhóm P5, và nó sẽ có ảnh hưởng rất to lớn đến quyết định chung của Hội đồng bảo an Xét trên phương diện của một quốc gia không thuộc P5, chắc chắn sẽ không có một ai mong muốn có một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào đó có đặc quyền quá lớn về cả chính trị lẫn quân sự và chi phối những quyết định quan trọng của Liên hợp quốc. Điều này cũng đi ngược hoàn toàn so với mong muốn, quyết tâm của Liên hợp quốc là “tin tưởng vào quyền bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ” Như vậy, việc thiết lập và duy trì hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự đã vấp phải những bất cập ngay trong quá trình tạo dựng cơ sở pháp lý cho ủy ban này. Đó là lí do vì sao các quốc gia các quốc gia đã bỏ qua Ủy ban này trong suốt thời gian từ những năm bốn mươi đến thập kỉ chin mươi của thế kỉ trước b. Việc duy trì một lực lượng quân sự thường trực Khi thành lập nên Ủy ban tham mưu quân sự, Liên Hiệp Quốc đã cân nhắc đến ý tưởng sẽ có một lực lượng quân sự thường trực , sẵn sàng với những trường hợp khẩn cấp. ủy ban tham mưu quân sự thậm chí đã thành lập một tiểu ban để dự trù số lượng quân đội của Liên Hiệp Quốc như đã giới thiệu tại phần đầu của bài tiểu luận. Trong trường hợp các quốc gia chấp nhận sẽ thành lập nên một lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc thì khi ấy những vấn đề nan giải mới sẽ nảy sinh. Trước hết là vấn đề đồn trú. Quân đội của Liên Hiệp Quốc sẽ được đồn trú tại một địa điểm cố định hay sẽ đặt luôn tại các quốc gia cam kết gửi quân? Nếu như lực lượng quân sự vẫn đóng tại quốc gia cam kết gửi quân thì quân đội Liên Hiệp Quốc sẽ tương đối phân tán , gây khó khăn cho việc ứng phó xử lí những trường hợp cần nhiều nhân lực, cũng như việc đồng bộ hóa quân đội và sự phối hợp hành động giữa các lực lượng này. Nhưng nếu như lực lượng này tập trung tại một địa điểm thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng bị động khi xảy ra một tình huống khẩn cấp xảy ra ở xa địa điểm đồn trú. Các quốc gia cũng khó có thể chấp nhận chia sẻ một phần không nhỏ lãnh thổ của mình để phục vụ cho lực lượng này Mặt khác việc duy trì lực lượng quân đội thường trực sẽ gặp phải những khó khăn trong quá trình đào tạo , bảo dưỡng , thay mới vũ khí và yêu cầu can thiệp, tăng số lượng quân đội khi có yêu cầu. Một điều đáng nói nữa là lực lượng này được hưởng những đặc quyền tương đối lớn , đặc biệt là các quốc gia phải cho phép quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình, theo điều 43 của Hiến chương. Điều này có thể coi là không thể thực hiện được, vì chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia là hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối và nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ còn bao gồm việc không sủ dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự đồng ý của quốc gia đó 2.2. Nguyên nhân chủ quan c. Do bất đồng nội bộ trong Ủy ban Thành viên của Ủy ban tham mưu quân sự chỉ bao gồm năm đại diện của các quốc gia là thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Việc phân chia công việc hay quyền hạn cho các thành viên này gặp vấn đề khó khăn, bởi vì chức vụ của các thành viên này đều là người lãnh đạo cao nhất trong quân đội mỗi nước. Quan điểm của các thành viên trong Ủy ban tham mưu quân sự trong việc đóng góp lực lượng , quân bị của các quốc gia, kể cả các quốc gia không thuộc P5 cũng có sự bất đồng mạnh mẽ. Liên Xô cho rằng việc đóng góp của nhóm nước P5 nên giống hệt nhau, điều này xuất phát từ việc Liên Xô là nước chịu thiệt hại nhiều nhất từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, vì thế Liên Xô không thể bỏ ra quá nhiều nhân lực hay kinh phí để đảm bảo duy trì lực lượng quân sự và giữ được tầm ảnh hưởng của mình trong ủy ban. Liên Xô cũng cho rằng các lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc chỉ cần đồn trú trên lãnh thổ của nước cam kết gửi quân, nhằm tránh việc các lực lượng quân sự sẽ sử dụng các căn cứ trên lãnh thổ nước ngoài. Ngoài ra Liên Xô còn cho rằng nên để giới hạn thời gian tái thiết sau khi chiếm đóng cũng như thời gian rút quân khi thực hiện xong nhiệm vụ từ 30-90 ngày, trong khi các nước khác cho rằng nên rút quân càng sớm càng tốt .. Trong khi đó, Pháp lại muốn cho phép việc sử dụng lãnh thổ được ủy thác tại nước ngoài . Anh, Mỹ , và Trung Quốc lại mong muốn các lực lượng quân đội thường trực của Liên Hiệp Quốc có thể được sử dụng vào trong các trường hợp khẩn cấp của quốc gia . Thế nhưng điều này lại đi trái với các quy định về lực lượng này được ghi nhận trong Hiến chương ( điều 46, 47..). Điều này đã gây nên những ý kiến trái chiều trong nội bộ của Ủy ban tham mưu quân sự. Ngoài ra, Anh và Pháp còn cho rằng lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc cần nhận được sự chỉ huy thống nhất, và sẽ có một chức danh Chỉ huy tối cao thực hiện điều này, chứ không phải là năm đại biểu của mỗi quốc gia. Nhiều ý kiến cho rằng việc này sẽ giúp Anh và Pháp có thêm nhiều cơ hội để đạt được ảnh hưởng trong việc kiểm soát quân đội của Liên Hợp Quốc . Tất nhiên, việc này không đạt được sự đồng ý của các thành viên khác của Ủy ban, bởi vì nhiều lí do chính trị hay danh dự của quốc gia, các Tổng tham mưu trưởng , đại diện cho quốc gia sẽ không bao giờ đồng ý cho một Tổng tham mưu của một quốc gia khác có chức vụ và quyền hạn cao hơn mình. Việc bất đồng trong quan điểm của các bên và không hề có sự nhượng bộ có thể là một nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của cơ quan này