Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm...

Tài liệu Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm

.DOC
19
372
100

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của mỗi người, cho nên vấn đề sản xuất, chế biến kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm an toàn luôn là vấn đề mang tính thời sự.Cĩ thể nói đây là một lĩnh vực phức tạp vì nó không những có sự tham gia của nhiều chủ thể, mà nó còn ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của mỗi người dân. Và trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thực phẩm không an toàn, gây tác hại cho con người đang là nổi bức xúc của toàn xã hội nói chung và trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Là một địa phương giữ vai trò là đầu tàu của nền kinh tế cả nước, thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung với số lượng lớn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các nhà máy xí nghiệp nên cũng quy tụ đông đảo đội ngũ người lao động tại thành phố cũng như từ các tỉnh và thành phố trên cả nước. Thêm vào đó, tình trạng dân cư từ các tỉnh đổ xô về thành phố để mưu sinh đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho chính quyền thành phố. Trong đĩ, công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là một vấn đề hết sức cấp bách. I. KHI QUÁT CHUNG: 1 Các khái niệm có liên quan: Thực phẩm theo quy định tại điều 31 khoản 1 pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm 2003 (gọi tắt là pháp lệnh 2003), thực phẩm là những sản phẩm mà con người ăn uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Khái niệm này mang tính khái quát cao, nên sự phân biệt giữa thực phẩm với các khái niệm mỹ phẩm và dược phẩm chưa rõ ràng. Hiện nay có rất nhiều sản phẩm vừa được sử dụng như thực phẩm vừa được sử dụng như dược phẩm như trà thanh nhiệt, các loại sữa chua len men, viên ngậm vitamin C… và những sản phẩm đó được coi là dược phẩm khi có thành phẩm hoạt chất với hàm lượng liều dùng có tác dụng phòng và chữa bệnh, đồng thời được sản xuất công bố có tác dụng phòng chữa bệnh, đồng thời được nhà sản xuất công bố có tác dụng phòng chữa bệnh. (Điểm 1 mục 1 Thông tư số 17/2000/TT-BYT ngày 27/9/2000 hướng dẫn đăng ký sản phẩm dưới dạng thuốc, dược phẩm). Việc hiểu đúng khái niệm về thực phẩm và dược phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng các quy định về sản xuất, đăng ký, lưu hành đối với các nhà sản xuất. Vệ sinh an toàn thực phẩm: là các điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo thực phẩm không gây hại cho sức khỏe, tính mạng con người (khoản 2 điều 3 pháp lệnh 2003). Theo đó vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm được đặt ra trong tất cả các khâu của chuỗi hình thành thực phẩm “từ nông trại đến bàn ăn” từ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển lưu thông trên thị trường và đến khâu cuối cùng là xử lý hậu quả ngộ độc thực phẩm. Ngoài ra, vệ sinh an toàn thực phẩm,còn phản ánh chất lượng thực phẩm. Không thể có chất lượng thực phẩm tốt khi không tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc thực hiện các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tạo ra sản phẩm an toàn, mặc dù trong nó vẫn chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học nhưng ở một mức độ an toàn, không gây hại cho sức khỏe và tính mạng của con người. Ngộ độc thực phẩm: là tình trạng bệnh lý xảy ra do ăn uống thực phẩm có chứa chất độc (khoản 5 điều 3 pháp lệnh 2003). 2. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong mối quan hệ với quyền con người được sống trong môi trường trong lành và vấn đề phát triển bền vững a. Quyền được sống trong môi trường trong sạch v lành mạnh là quyền cơ bản của con người. Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về môi trường trong lành trở thành một nguyên tắc chung cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc số 1 của tuyên bố Stockholm nêu rõ:” con người có quyền được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm già và phúc lợi mà con ngừoi có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay va mai sau.” Tuân thủ nguyên tắc này với tư cách là thành viên tham gia ký kết, Việt Nam đã nội luật hóa nguyên tắc này bằng việc ban hành Luật Bảo vệ sức khỏe cho Nhân dân ngày 30/6/1989. Tại điều 1 quy định rõ công dân cĩ quyền được đảm bảo về vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường. Đồng thời, luật này cũng quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiến hành các biện pháp đảm bảo vệ sinh ăn ở, sinh hoạt cho nhân dân ở địa phương và trong cả nước. Pháp lệnh 2003 cùng các văn bản pháp luật liên quan là sự cụ thể hóa quyền con người được bảo vệ mặt vệ sinh thực phẩm. b. Vệ sinh an toàn thực phẩm đặt trong mối quan hệ với vấn đề phát triển bền vững. Theo khoản 4 điều 3 Luật bảo vệ Môi trường, phát triển bền vững là phát triển để đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của thế hệ tương lại trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đứng ở vị trí nào trong phát triển bền vững? Như ta đã biết, con người là nguồn lực không thể thiếu trong nền kinh tế. Nguồn lực con người được đảm bảo sẽ góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Nguồn lực con người được nói đến ở đây không chỉ bao gồm người lao động trong các nhà máy xí nghiệp,mà còn bao gồm đông đảo người tiêu dùng trên thị trường. Khi vệ sinh an toàn thực phẩm được đảm bảo, cho ra đời nguồn thực phẩm an toàn, đảm bảo sức khỏe và tính mạng cho con người. Và khi tính mạng, sức khỏe được đảm bảo họ sẽ đem sức lực trí tuệ của mình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Hơn nữa, thực phẩm có chất lượng tốt còn có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu vào các thị trường màu mỡnhưng khó tính như Hoa Kỳ, Châu Âu Nhật Bản… từ đó mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp và nhà nước. với số lợi nhuận đó, nhà sản xuất sử dụng để đầu tư tái sản xuất, cải tiến công nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm.Hơn nữa, khi thực phẩm an toàn nhà nước không phải tốn kém nhiều chi phí về y tế để khắc phục nhứng tác hại ảnh hương đếntính mạng, sức khỏe người dân do thực phẩm có chất độc gây ra. Thay vào đó nhà nước thực hiện các phúc lợi nâng cao đời sống cho người dân.

Tài liệu liên quan