Mô tả:
Thu hồi đất là một quá trình không phải tự nguyện, có tính cưỡng chế, không phải là sự đền bù ngang giá tuyệt đối. Từ đó thấy rằng công tác bồi thường được hiểu không chỉ là sự đền bù vật chất đơn thuần mà còn bảo phải thiểu tối đa những thiệt hại mà chủ thể bị thu hồi phải chịu, tạo mọi điều kiện để giúp cho chủ thể bị thu hồi ổn định đời sống, tiếp tục sản xuất. Công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất cũng không ngoài mục tiêu là làm giảm mức chênh lệch về sự thiếu ngang giá trong quá trình bồi thường, trả lại giá trị đã mất đi của tài sản gắn liền với phần đất bị thu hồi. Do đó, thu hồi đất là hoạt động hỗ trợ đắc lực nhất cho Nhà nước trong quá trình bồi thường thiệt hại. Mục đích thu hồi đất nhằm xác định rõ lý do của việc thu hồi cũng như việc sử dụng phần đất bị thu hồi trong tương lai. Việc xác định rõ mục đích thu hồi đất vừa bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình thu hồi đất, vừa khẳng định rõ nhu cầu cần thiết của việc thu hồi, không để xảy ra tình trạng đất đã thu hồi nhưng không biết sử dụng cho mục đích gì. Đồng thời phân biệt giữa thu hồi đất với cơ chế thoả thuận để nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi thực hiện dự án; tránh tình trạng lạm dụng thu hồi đất. Mục đích thu hồi đất khác nhau thì trình tự, thủ tục thu hồi đất, quyền lợi và nghĩa vụ của người có đât thu hồi cũng khác biệt. Cụ thể theo Luật đất đai năm 2013 thu hồi đấ được chia thành các nhóm cơ bản sau: (i) Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (ii) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai; (iii) Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe doạ tính mạng con người. Mục đích thu hồi đất được nghiên cứu trong phần thứ hai của giáo trình là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh (Điều 61 Luật đất đai năm 2013) và thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 62 Luật đất đai năm 2013). Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã quy định về mục đích thu hồi đất nêu trên, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác thu hồi đất. Ở Việt Nam, mục đích thu hồi đất chỉ được quy định chi tiết từ giai đoạn Luật đất đai năm 1993 và cũng khẳng định việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Sau đó, mục đích phát triển phát triển kinh tế đã chính thức được quy định ở Luật đất đai năm 2003. Điều này đặt ra câu hỏi, liệu vì mục đích phát triển kinh tế mà thu hồi đất của người sử dụng đất như vậy có ổn hay không? Vì việc phát triển kinh tế là rất rộng và sẽ có một, một nhóm chủ thể được hưởng lợi từ việc sử dụng phần đất sau thu hồi. Mục đích phát triển kinh tế vẫn tiếp tục được quy định tại Luật đất đai năm 2013 nhưng phạm vi đã thu hẹp và xác định khá rõ mục đích của các dự án phát triển kinh tế này, đó là vì lợi ích quốc gia, công cộng. Quan niệm về mục đích thu hồi đất ở nước ta có điểm đáng lưu ý là sự xuất hiện và phát triển của mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng11. 1.3 Sơ lược sự hình thành và phát triển của việc bồi thường vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất. 1.3.1 Giai đoạn trước Lluật đất đai năm 1993 Nhìn chung giai đoạn này công tác giải phóng mặt bằng còn đơn giản, đặt lợi ích xã hội, cộng đồng lên lợi ích cá nhân một cách mạnh mẽ. Hơn nữa, người sử dụng đất trước năm 1993 có những quyền năng rất hạn chế, đất đai lại không được xem là một loại tài sản lưu thông trên thị trường nên nếu có “giải toả” cho những dự án công cộng, thì tài sản trên đất được bồi hoàn cho chủ sở hữu tài sản nhưng đất đai chủ yếu là hoán đổi. Do đất đai không được xem là tài sản “có giá” nên sự hoán đổi mang tính chất tượng trưng, cung cấp những điều “kiện hoán” đổi để người sử dụng đất có thể sống được”. Điều này dựa trên cơ sở lý luận: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý; người sử dụng đất do Nhà nước giao, nên khi cần Nhà nước có thể “lấy lại” và “giao lại” một thửa đất khác (Phan Trung Hiền, 2003). Luật đất đai 1987 có quy định: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc nhu cầu của xã hội, thì được đền bù thiệt hại thực tế và giao đất khác”12. Quy định này chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chưa quy định cụ thể trường hợp nào được hay không được bồi thường; mức độ bồi thường như thế nào. Với sự thiếu sót đó ngày 31/5/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 186/HĐBT quy định về đền bù thiệt hại với đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Quyết định này có ý nghĩa là người sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng sử dụng vào mục đích khác thì phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất rừng cho Nhà nước và đền bù thiệt hại về tài sản cho người có đất bị thu hồi để giao cho người sử dụng. Mức đền bù do Nhà nước quy định theo từng loại đất và tài sản trên đất.